Trường hợp giãn phế quản nào có thể mổ cắt bỏ được ?

Hầu hết các trường hợp giãn phế quản đều là giãn phế quản lan tỏa – những trường hợp này không có chỉ định mổ. Chỉ số ít trường hợp có chỉ định mổ cắt bỏ Chỉ định mổ cắt bỏ vùng phổi bị giãn phế quản thường được đặt ra cho những trường hợp: […]

Hầu hết các trường hợp giãn phế quản đều là giãn phế quản lan tỏa – những trường hợp này không có chỉ định mổ. Chỉ số ít trường hợp có chỉ định mổ cắt bỏ

Chỉ định mổ cắt bỏ vùng phổi bị giãn phế quản thường được đặt ra cho những trường hợp: Giãn phế quản khu trú ở một phân thùy hoặc một thùy phổi: những trường hợp này thường được chỉ định mổ khi có nhiễm trùng tái phát, hoặc ho máu. Cần đánh giá chức năng hô hấp trước phẫu thuật, chỉ định mổ chỉ áp dụng cho những trường hợp có thể tích thở ra gắng sức trong giây đầu tiên ước tính sau phẫu thuật còn > 1 lít/ lần thở.

Giãn phế quản là sự giãn không hồi phục các phế quản nhỏ và trung bình kèm theo sự loạn dạng các lớp phế quản và đa tiết phế quản, có thể do bẩm sinh hay mắc phải, thường bị bội nhiễm định kỳ. Giãn phế quản gặp ở nam 4 lần nhiều hơn ở nữ.

Nguyên nhân mắc phải

Hiện nay được xem như là thường gặp nhất; những thể này có thể khu trú hay lan tỏa.

Thể khu trú:

Những nguyên nhân gây hẹp phế quản một phần: gây nên sự ứ dịch tiết dẫn đến nhiễm trùng và phế quản bị giãn ra, đôi khi trong 2 – 3 tuần lễ. Những nguyên nhân này thường chỉ được phát hiện nhờ nội soi phế quản, trước tiên là khối u có thể lành tính hay ác tính, có thể là vật lạ nhất là đối với trẻ em, có thể là lao bởi những lỗ dò hay u hạt từ một lao sơ nhiễm tiến triển hay trên di chứng calci hóa.

Áp xe phổi: di chứng sẹo xơ hay trên một áp xe phổi mạn tính.

Aspergillose phế quản: ít gặp hơn nhưng rất đặc biệt là có sự phối hợp với những biểu hiện tăng nhạy cảm type I và type II (tìm những chất kết tủa kháng aspergillus), có thể có tăng bạch cầu ái toan và khu trú ở phế quản rất gần gốc, như vậy chỉ tổn thương các phế quản lớn còn các phế quản trước tận cùng còn tốt (bệnh Hinton).

Thể lan tỏa:

Di chứng của các bệnh phế quản – phổi cấp nặng trong thời kỳ thiếu niên: có thể bị quên lúc khởi đầu hội chứng đa tiết phế quản – phổi. Sởi và ho gà là 2 bệnh thường gặp nhất, những bệnh nhiễm siêu vi nặng nhất là do Arbovirus là những nguyên nhân gây nên di chứng giãn phế quản.

Bệnh nhầy nhớt (bệnh xơ tụy tạng nhầy – kén): là những bệnh bẩm sinh di truyền; trong những bệnh này có rối loạn về tiết dịch do sự thanh lọc bị chậm lại, gây nên những nhiễm trùng phế quản – phổi tái phát dẫn đến những thể giãn phế quản rất nặng với suy hô hấp mạn và chết trước thời kỳ trưởng thành.

TS. Nguyễn Thanh Hồi, khoa Hô hấp, Bệnh viện Bạch Mai

Tin liên quan ...