Tình hình mắc ung thư phổi ở Việt nam

Ung thư phổi khi được chẩn đoán thường là nỗi ám ảnh vô cùng to lớn với cả bệnh nhân và người nhà bệnh nhân. Bệnh không chữa khỏi được, các điều trị chủ yếu nhằm kiểm soát triệu chứng hoặc làm chậm lại tiến triển của bệnh. Hiện nay đã có những số liệu […]

Ung thư phổi khi được chẩn đoán thường là nỗi ám ảnh vô cùng to lớn với cả bệnh nhân và người nhà bệnh nhân. Bệnh không chữa khỏi được, các điều trị chủ yếu nhằm kiểm soát triệu chứng hoặc làm chậm lại tiến triển của bệnh.

Hiện nay đã có những số liệu ghi nhận về ung thư tương đối chính xác và có thể đại diện cho tình hình ung thư của cả nước. Theo số liệu về tỷ lệ ung thư ở Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh giai đoạn từ năm 1995 – 1996, và từ đó ước tính chung tỷ lệ mắc ung thư ở Việt Nam năm 2000, nam giới có khoảng 36.021 người chiếm tỷ lệ 91,5/100.000 dân và ở nữ giới có khoảng 32.786 người, chiếm tỷ lệ 81,5/100.000 dân. Ung thư phổi đứng hàng đầu ở nam giới. Ước tính cả nước hàng năm có khoảng 6.905 ca ung thư phổi mới mắc. Trong số các trường hợp ung thư phổi nhập viện, 62,5% không còn khả năng phẫu thuật.

Tại Khoa hô hấp bệnh viện Bạch Mai, số các trường hợp ung thư phổi nhập viện tăng đều hàng năm: 1969 đến 1972 có 89 trường hợp ung thư phổi, từ 1974 đến 1978 có 186 trường hợp, từ 1981 đến 1985 có 285 trường hợp, từ 1996 đến 2000 có 639 trường hợp, chiếm 16,6% tổng số các bệnh nhân điều trị, đứng hàng thứ 2 (sau bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính).

Tóm lại, ung thư phổi trên thế giới nói chung và cũng như ở Việt Nam nói riêng là bệnh phổ biến trong tất cả các loại ung thư. Đây là bệnh có tiên lượng xấu bởi tiến triển nhanh, di căn sớm, phát hiện bệnh thường ở giai đoạn muộn. Do vậy khả năng điều trị ngoại khoa cũng như các biện pháp điều trị khác rất hạn chế. Việc điều trị ung thư phổi vẫn còn là một vấn đề nan giải, ít tiến bộ so với các loại ung thư khác nên cần quan tâm chẩn đoán sớm và tăng cường công tác dự phòng.

Tin liên quan ...